Danh sách ân nhân
Anh Phan Phong Lãng Đoàn 75 Pháp Quốc $50.00
Kingbee Đặng Quỳnh Nam Cali $50.00 Cash
Kingbee Lụa Nguyễn San Jose $50.00 Ck #1141
NT Nguyễn Phan Tựu Đoàn 72/SCT Colorado $100.00
Anh Lâm Ngọc Chiêu BCH/NKT và thân nhân $130.00
G/Đ NKT Huỳnh Ngọc Thương + Phạm Hòa $100.00
Anh Nguyễn Đức Nhữ Đoàn 75 San Jose California $50.00 Ck # 2309
Kingbee Đặng Quỳnh Nam Cali $50.00 Cash
Kingbee Lụa Nguyễn San Jose $50.00 Ck #1141
NT Nguyễn Phan Tựu Đoàn 72/SCT Colorado $100.00
Anh Lâm Ngọc Chiêu BCH/NKT và thân nhân $130.00
G/Đ NKT Huỳnh Ngọc Thương + Phạm Hòa $100.00
Anh Nguyễn Đức Nhữ Đoàn 75 San Jose California $50.00 Ck # 2309
Kingbee Dương Văn Khải $50.00 ck # 768
Hắc Long Nguyễn Văn Hùng D75/D68 $300.00 ck # 6095
Kiem Ngo Trumbull, Connecticut (AET) Thiếu Sinh Quân $50.00 Ck # 1478
Kingbee Nguyễn Hải Hoàn Milpitas, CA $50.00 Ck # 3109
THƯ CÁM ƠN
Kính Gởi: Hội H.O cứu trợ TPB&QP/QLVNCH .
Gia
Đình chúng tôi là Quả Phụ Nguyễn Thị Duyên (Vợ của BK Trần Văn Chiến)
cùng cháu Nguyễn Xuân Hoàng, Đã nhận được số tiền:
200 USD của Hội gởi về giúp chúng tôi lo tang lễ cho chồng tôi là Biệt
Kích Trần Văn Chiến.
Gia
Đình chúng tôi Xin CHÂN THÀNH CẢM TẠ và TRI ƠN sự quan tâm giúp đỡ từ
Quý Hội tới Gia Đình chúng tôi. Trong lúc này, với sự bối rối của Gia
Đình, chúng tôi không biết nói gì hơn. Xin Kính Chúc Quý Hội Luôn Dồi
Dào Sức Khỏe, nhận nơi đây Lòng Tri Ơn Sâu Sắc của Gia Đình chúng tôi
tới Quý Hội .
Kính Thư
Quả Phụ Nguyễn Thị Duyên
Cháu Nguyễn Xuân Hoàng.
Gia Đình Nha Kỹ Thuật phúng điếu đợt 1
Kính
Thưa các Bác , các Chú Gia Đình NKT . Hội H.O cứu trợ TPB /QP QLVNCH .
Vừa qua, nhận lời kêu gọi trợ giúp cho Tang Lễ của người Biệt Kích Bị
Lãng Quên Trần Văn Chiến, từ cháu và Chú Phạm Hòa. Quý Hội H.O cùng các Bác,
các Chú trong Gia Đình NKT từ khắp nơi tại Hoa Kỳ, Thương mến
và Cảm thông sự ra đi trong Buồn Tủi của một Chiến Hữu năm xưa, có Hoàn
Cảnh Khó Khăn tại quê nhà VN . Đã Mở Lòng Từ Tâm, Trợ Giúp cho Gia
Đình Chú Trần Văn Chiến một số tiền lớn (Cháu được hưởng lây 80USD).
Số tiền này Giúp cho cháu và Gia Đình Chú Chiến, Chu Toàn và hoàn tất
được Tang Lễ của Chú Chiến. Cháu Chân Thành Cảm Tạ đến Quý Hội H.O,
các Bác, các Chú Gia Đình NKT Hải Ngoại.
cháu Hoàng .
Biệt Kích Trần Văn Chiến
Một Đồng Đội Vừa Ra Đi Trong Khốn Cùng !
Thư liên lạc đầu tiên của cháu Hoàng
June 6th, 2011
"Kính Gữi : Chú PHẠM HÒA cùng Các Chú Các Bác trong Gia Đình Nha Kỹ Thuật QLVNCH.
Thưa Chú Hòa ! cháu tên là Trai Trung Dũng, đang sống tại Khánh Hòa, Việt Nam. là thế hệ thứ hai đã được sống và hiểu rất rõ về qlvnch, nên cháu rất yêu mến và ngưỡng mộ tất cả các binh chủng qlvnch. Tuổi thơ của cháu trước năm 1975 thường mơ ước sau này khi lớn lên sẽ đi lính này lính kia tùy theo mỗi cái mũ nồi (beret có màu đỏ , xanh , nâu , đen) mà cháu thấy mấy Chú lính đội trên đầu mỗi khi trên đường cháu đi học. Nhưng ước mơ đó của cháu đã bị vùi tắt sau ngày định mệnh của quốc gia. Thưa Chú ! hôm nay cháu mạo muội gữi email này đến Chú để cầu xin Chú và Gia đình Nha Kỹ Thuật giúp cho cháu tìm & xác định danh tính cho một biệt kích quân nhảy bắc trong năm 1968, vì từ năm 1968 cho đến bây giờ người này vẫn thật sự là một chiến sĩ vô danh. Cháu có một vài thông tin về người chiến sĩ vô danh này như sau: cháu có một người Dượng Rễ là chồng của người Cô họ của cháu, tên thật là gì thì trong gia đình kể cả Cô của cháu cũng không rõ ràng lắm, vì khi thì Dượng của cháu nói tên là Phạm Tòng lúc thì nói tên Phạm Chiến, có lúc tỉnh táo thì thấy Dượng của cháu ghi trong tờ giấy bất kỳ nào cái tên Nguyễn Chiến. Vì Dượng của cháu có một khoảng thời gian gần 20 năm sống với tâm thần bất ổn định, hay tìm quên quá khứ trong men rượu. Theo như lời kể của Dượng 10 (mọi người trong gia đình thường gọi bằng tên này theo thứ của Cô họ của cháu) những lúc cháu gợi chuyện thì chuyến công tác mà Dượng của cháu tham gia vào năm 1968, tháng nào cháu không rõ, toán công tác đã bị phát hiện và phục kích, sau khi nhảy dù xuống thì bị mắc trên cây nên đã bị bắn nát thây ở trên cây, còn lại là Dượng 10 của cháu, bị bắt sống, bị lưu đày qua rất nhiều trại tù khắp miền bắc, bị tra tấn dã man gãy một cánh tay nhưng không được chữa trị nên sau khi lành thì cánh tay bị cong như hình chữ V, trong những năm đó có hơn một năm bị nhốt trong buồng cách ly không tiếp xúc với người, Dượng của cháu nói rằng đã quên đi tiếng người sau khi được đưa ra khỏi buồng cách ly, vì vậy sau khi về miền nam thì giọng bắc lí nhí của Dượng rất khó nghe. Dượng của cháu được thả về năm 1982, trên chuyến tàu lửa xuôi về nam năm đó, Dượng của cháu bị giật mất túi xách, trong đó có giấy tờ tùy thân sau khi ra tù. Từ năm 1982 cho tới nay, Dượng của cháu sống ngoài vòng pháp luật, nghĩa là không có một giấy tờ gì để gọi là được trả quyền công dân, để được nhập hộ khẩu vào một địa phương nào đó bất kì, khi lập gia đình rồi có hai đứa con cũng không làm được hôn thú cho mình và khai sinh cho con, tội nghiệp nhất là hai em của cháu bị thất học vì không có giấy khai sinh . Quan trọng nhất là không thể chứng minh được mình là một BKQ thuộc Nha Kỹ Thuật và cũng không thấy chiến hữu nào năm xưa tìm tới thăm hỏi. từ năm 1983 sau khi lập gia đình với Cô của cháu cho tới bây giờ, Cô Dượng của cháu sống bằng cái nghề làm gạch xây dựng và cả gia đình cũng cư ngụ luôn trong mỗi cái lò gạch nào mà cả nhà đang làm việc, vì không có đất vườn nhà cữa ổn định, không có hội đoàn đoàn thể nào từ phía bên này hoặc phía bên kia giúp đỡ gì hết, nên phải chấp nhận sống khổ nhục như vậy.
Thưa Chú Hòa ! cháu tên là Trai Trung Dũng, đang sống tại Khánh Hòa, Việt Nam. là thế hệ thứ hai đã được sống và hiểu rất rõ về qlvnch, nên cháu rất yêu mến và ngưỡng mộ tất cả các binh chủng qlvnch. Tuổi thơ của cháu trước năm 1975 thường mơ ước sau này khi lớn lên sẽ đi lính này lính kia tùy theo mỗi cái mũ nồi (beret có màu đỏ , xanh , nâu , đen) mà cháu thấy mấy Chú lính đội trên đầu mỗi khi trên đường cháu đi học. Nhưng ước mơ đó của cháu đã bị vùi tắt sau ngày định mệnh của quốc gia. Thưa Chú ! hôm nay cháu mạo muội gữi email này đến Chú để cầu xin Chú và Gia đình Nha Kỹ Thuật giúp cho cháu tìm & xác định danh tính cho một biệt kích quân nhảy bắc trong năm 1968, vì từ năm 1968 cho đến bây giờ người này vẫn thật sự là một chiến sĩ vô danh. Cháu có một vài thông tin về người chiến sĩ vô danh này như sau: cháu có một người Dượng Rễ là chồng của người Cô họ của cháu, tên thật là gì thì trong gia đình kể cả Cô của cháu cũng không rõ ràng lắm, vì khi thì Dượng của cháu nói tên là Phạm Tòng lúc thì nói tên Phạm Chiến, có lúc tỉnh táo thì thấy Dượng của cháu ghi trong tờ giấy bất kỳ nào cái tên Nguyễn Chiến. Vì Dượng của cháu có một khoảng thời gian gần 20 năm sống với tâm thần bất ổn định, hay tìm quên quá khứ trong men rượu. Theo như lời kể của Dượng 10 (mọi người trong gia đình thường gọi bằng tên này theo thứ của Cô họ của cháu) những lúc cháu gợi chuyện thì chuyến công tác mà Dượng của cháu tham gia vào năm 1968, tháng nào cháu không rõ, toán công tác đã bị phát hiện và phục kích, sau khi nhảy dù xuống thì bị mắc trên cây nên đã bị bắn nát thây ở trên cây, còn lại là Dượng 10 của cháu, bị bắt sống, bị lưu đày qua rất nhiều trại tù khắp miền bắc, bị tra tấn dã man gãy một cánh tay nhưng không được chữa trị nên sau khi lành thì cánh tay bị cong như hình chữ V, trong những năm đó có hơn một năm bị nhốt trong buồng cách ly không tiếp xúc với người, Dượng của cháu nói rằng đã quên đi tiếng người sau khi được đưa ra khỏi buồng cách ly, vì vậy sau khi về miền nam thì giọng bắc lí nhí của Dượng rất khó nghe. Dượng của cháu được thả về năm 1982, trên chuyến tàu lửa xuôi về nam năm đó, Dượng của cháu bị giật mất túi xách, trong đó có giấy tờ tùy thân sau khi ra tù. Từ năm 1982 cho tới nay, Dượng của cháu sống ngoài vòng pháp luật, nghĩa là không có một giấy tờ gì để gọi là được trả quyền công dân, để được nhập hộ khẩu vào một địa phương nào đó bất kì, khi lập gia đình rồi có hai đứa con cũng không làm được hôn thú cho mình và khai sinh cho con, tội nghiệp nhất là hai em của cháu bị thất học vì không có giấy khai sinh . Quan trọng nhất là không thể chứng minh được mình là một BKQ thuộc Nha Kỹ Thuật và cũng không thấy chiến hữu nào năm xưa tìm tới thăm hỏi. từ năm 1983 sau khi lập gia đình với Cô của cháu cho tới bây giờ, Cô Dượng của cháu sống bằng cái nghề làm gạch xây dựng và cả gia đình cũng cư ngụ luôn trong mỗi cái lò gạch nào mà cả nhà đang làm việc, vì không có đất vườn nhà cữa ổn định, không có hội đoàn đoàn thể nào từ phía bên này hoặc phía bên kia giúp đỡ gì hết, nên phải chấp nhận sống khổ nhục như vậy.
Kính Thưa Chú ! thư cháu quá dài phải
không? cháu nghĩ rằng với một số thông tin về người Dượng tội nghiệp
của cháu như vậy, thì cũng chưa đầy đủ lắm, khó mà để được Chú cùng Gia
Đình Nha Kỹ Thuật điều tra xác minh giùm cho Dượng của cháu. Nhưng cháu
rất mong khi đọc thư này của cháu gữi, Chú và Gia Đình Nha Kỹ Thuật có
một sự cảm thông cho người chiến hữu của mình đang gặp rất nhiều khó
khăn trong cuộc sống hiện tại mà ra tay trợ giúp. Vì cháu được biết là
trong gần một tuần nữa thì Nha Kỹ Thuật qlvnch có một kỳ Đại Hội lớn
trong năm 2011 này. Sau cùng , Cháu xin chúc sức khỏe đến Chú cùng Gia
Đình Nha Kỹ Thuật luôn dồi dào, có một kỳ Đại Hội thành công rực rỡ trên
tinh thần:
Một Ngày Lôi Hổ Một Đời Lôi Hổ.
Ngay sau khi nhận tin của cháu Hoàng chúng tôi liên lạc với Thép Đen Đặng Chí Bình, người Tù Kiệt Sức Nguyễn Hữu Luyện, một số quý anh thuộc Sở Bắc Nha Kỹ Thuật và cuối cùng là anh Hà Văn Sơn Georgia, nhờ có hình của anh Chiến và mọi người đều xác nhận anh Chiến thuộc Chiến Đoàn 1 và khi bị bắt làm tù bình và được chuyển giao ra Bắc và giam chung với các anh Sở Bắc Nha Kỹ Thuật các anh còn cho biết anh Chiến còn có một biệt danh là "Chiến Củ" vì anh thường nhặt những củ khoai và củ mì trong những năm tù tội nơi miền bắc.
Khi liên lạc với anh Chiến lúc anh đang cư ngụ tại khu rừng lá thuộc tỉnh Bình Tuy ngày xưa, vì không có địa chỉ cũng như hộ khẩu và căn cước nên việc trao tiền phải qua trung gian, có lần các em từ Phan Thiết đi xe gắn máy vào rừng lá vào trao tiền mặt và anh Chiến cứ nghi ngờ công an nên không tiếp xúc.
Anh Chiến tuổi đã ngoài 70 và lao động thật cực khổ phải đào những khối đất sét cho vào khung gạch và cho vào lò nướng, công việc rất nặng nhọc và anh xin giúp anh một việc quan trọng, anh cần tài chánh để về nguyên quán Khánh Hòa và một nơi khả dĩ có thể cư ngụ sau đây là thư của chị Chiến .
và đây là nhắn tin post trên Blog TPBNKT
"Biệt Kích Trần Văn Chiến nhân viên công tác thuộc CCN Chiến Đoàn 1 Xung Kích. Trong chuyến công tác vào khoãng giữa năm 1968 Toán đụng địch vùng Đức Cơ, Tân Cảnh, anh bị thương nặng và bị bắt làm tù binh và bị giam giữ trong những trại tù binh dành cho Biệt Kích tại miền Bắc, anh bị giam giử chung với các Toán Nhảy Bắc trong chương trình Oplan 34A. Anh được trả về nguyên quán " Tỉnh Khánh Hòa" vào năm 1983 và bị mất toàn bộ những giấy tờ tùy thân. Trong chương trình Định cư tại Hoa Kỳ vào năm 1996 do Thượng Nghị Sĩ John Mc Cain chủ xướng anh không hề biết, mà nếu có biết thì cũng không còn giấy tờ vì đã bị móc túi mất sạch.
Trong 30 năm sau ngày tù tội anh và gia đình sống không hộ khẩu và gia cư làm nghề gạch trong khu rừng lá Bình Tuy.
Trước khi định cư tại Hoa Kỳ Lôi Hổ Huỳnh Ngọc Thương và các anh thuộc chiến đoàn 1 có đến rừng lá để thăm anh Chiến.
Chúng tôi đã giúp BK Trần văn Chiến để trở về nguyên quán cách đây vài năm, và hàng năm vẫn đều đặn gữi giúp TPB/ Biệt Kích Trần Văn Chiến. Xin kèm lời nhắn tin của cháu Hòang từ Khánh Hòa VN."
Chúng tôi đã giúp BK Trần văn Chiến để trở về nguyên quán cách đây vài năm, và hàng năm vẫn đều đặn gữi giúp TPB/ Biệt Kích Trần Văn Chiến. Xin kèm lời nhắn tin của cháu Hòang từ Khánh Hòa VN."
"Thưa
Chú ! Người tù BIỆT KÍCH BỊ LÃNG QUÊN Trần Văn Chiến đã qua đời vào lúc
11 giờ 15' ngày 16 - 05 - 2015 .Sẽ Hỏa Táng lúc 16 giờ ngày 18 - 05 -
2015 . Gia Đình rất Khó Khăn . Con xin Chú Hòa thông tin : Gia Đình NKT
tại Hải Ngoại Trợ Giúp (Hoặc Phúng Viếng) một phần kinh phí, để Gia Đình
của Chú Chiến lo An Táng ? con xin ý kiến của Chú Hòa. Con Mong Chú
Hòa luôn Vui Khỏe , bên cạnh Chú luôn có các Niên Trưởng, Bạn Bè Đồng
Đội, và lớp Hậu Duệ như chúng con Luôn yêu Thương và Tin Tưởng trước
những công việc, mà Chú Hòa đã và đang làm .
cháu Hoàng. "Lời kêu gọi của Làng Câu AET:
Làng Câu AET:
Tuy anh Chiến không phải là người cùng Toán (Recon Team) với chúng
tôi tại Chiến Đòan 2 Xung Kích (CCC), nhưng anh cũng là 1 anh em
đồng đội Lôi-Hổ, là một chiến hữu vô danh trong QL.VNCH, và nếu so
với sự bất hạnh mà anh em chiến Hũu QLVNCH nói chung phải gánh chịu
trước và sau khi mất nước thì trường hợp của BK Trần Văn Chiến có lẽ
là bi thảm nhứt, ngòai phần bị kỳ thị đày đọa trong đói nghèo, một xã
hội không có chỗ đứng dành cho anh, và cho đến chết anh vẫn là người
lưu vong trên chính quê hương mình.
Ông Bà ta có dạy con cháu " Con mình ăn thì hết, nhưng người ta ăn thì
còn ..." xin anh em trong gia đình CTSQ và anh chị em ở khắp nơi dù
quen hay lạ, xin mở lòng mà cố gắng giúp đỡ gia đình người Biệt-Kích
khốn khổ cũng như hết sức xứng đáng này và cũng là cách tạo phước đức
cho con cháu về sau. Xin chân thành cám ơn tấm lòng từ tâm của mọi
người.
CTSQ. Làng Thủy Triều
Cựu Liên Tóan Trưởng : Hỏa-Lôi, Phong Lôi và Thần Lôi.
CĐ2XK/ CCC/ 1969-1972.
Ngay sau khi nhận nhắn tin và chúng tôi đã nhận đóng góp từ bốn phương trời như Pháp Quốc, Tân Tây Lan, San Jose California, Colorado, Houston Texas, Las Vegas của các gia đình chiến hữu như Chiến Đoàn 1, Chiến Đoàn 2, Sở Công Tác, Kingbee, Hội H.O.
Món quà nhỏ do sự đóng góp mọi nơi đã sưỡi ấm gia đình tang quyến, Bà quả phụ Trần Văn Chiến và các con cháu cũng vui lây khi biết được lòng quan tâm từ tất cả mọi người, với số tài chánh phụ giúp gia đình lo chu đáo cho tang lễ và phần còn lại như một món quà của quý Anh Chị trao đến gia đình một chiến hữu một biệt kích Nha Kỹ Thuật bị lãng quên trong và sau cuộc chiến.
Đám Tang BK Trần Văn Chiến ( tù Cộng Sản Bắc Việt )
Bà Quả Phụ Trần Văn Chiến cùng 2 con trai
Bà Quả Phụ BK Trần Văn Chiến
Câu chuyện hy hữu
MX Mai Văn Tấn
Nhớ
mãi một câu chuyện tôi cứ nghĩ không bao giờ xẩy ra trong đời người.
Nhưng nó đã xẩy ra một cách hết sức bất ngờ trong những ngày lao tù dưới
chế độ CS ở miền Bắc Việt Nam. Hình như một sự mầu nhiệm nào đó để ngăn
cản những người CS bớt làm điều ác để mọi người bớt nguyền rủa và chính
bản thân cũng như gia đình họ gặp những điều an lành hơn. Câu chuyện
khó có thể tin và ngoài sức tưởng tượng của con người.
Những ngày tháng ở trại tù cải tạo (trại 2 liên trại 2) Hoàng Liên Sơn,
gần bản Mường Côi thuộc huyện Nghiã lộ. Ngày ngày đoàn tù lao động như
lấy gỗ, chặt giang, nứa, củi… hoặc đi nhận thực phẩm ở Phù Yên đều đi
ngang qua các nhà của dân chúng ở hai bên đường. Họ là thành phần bị chỉ
định cư trú mà CS gọi là “Khu Kinh Tế Mới“. Có những người từng làm
việc hoặc ở trong quân đội của chính phủ Pháp. Những người sống dưới chế
dộ cộng sản nhưng không đúng đường lối hoặc quan điểm. Tóm lại những
người mà chế độ cho là nguy hiểm, xét lại hay có hại đối với chế độ,
thêm vào đó là người dân bản xứ.
Ðặc
biệt mỗi lần ngang qua nhà anh Trung (anh bị thương ở tay cử động khó
khăn, VC gọi là Trung Khều làm nghề thợ may), quản giáo và vệ binh (danh
từ VC) hay ghé lại nhà anh ngồi nghỉ, uống nước chè hút thuốc lào và
tán gẫu. Nhân tiện những người tù cũng ngồi la liệt hai bên đường trước
cửa nhà anh để nghỉ. Anh hay đem thuốc lào và nước để anh em dùng. Thời
gian này anh em nghiện thuốc lào bất đắc dĩ vì không có thuốc lá. Mặc
dầu trong bụng lúc nào cũng cồn cào vì cái đói triền miên, nhưng thuốc
lào hình như cần thiết hơn. Thấy sự đối xử anh Trung rất khác biệt với
những người khác. Ðó là điều hiếm hoi trong một chế độ lấy lừa dối làm
chính, xem mạng người như cỏ rác và đầy hận thù. Các con của anh cũng
khác xa với “cháu ngoan bác hồ” [mất dạy không chỗ nào nói nổi], không
bao giờ gọi chúng tôi là “thằng tù”.
Một
lần chúng tôi ngồi nghỉ trước nhà anh trên lề đường để uống nước và hút
thuốc lào do con anh mang đến. Nội quy cấm không được tiếp xúc với dân,
nếu vi phạm sẽ bị cùm trong nhà kỷ luật vì vậy mọi sự tiếp xúc phải lén
lút đừng để bọn cán bộ bắt gặp. Nhân tiện tôi hỏi cháu sao không gọi
các chú là “thằng tù“ giống như các đứa trẻ khác. Cháu trả lời “Bố cháu
dạy các bác các chú là thành phần học thức miền Nam, vì vận nước phải đi
tù chứ không có tội tình gì cả. Các con phải đối xử lễ độ với họ và tôn
trọng họ“. Thấy sự việc càng ngày xẩy ra không đơn giản, phải có nguyên
do sâu xa nào đó mà tôi chưa biết. Trong đầu tôi tự hỏi mãi “tại sao”,
mà chính tôi chưa bao giờ trả lời được. Lúc bấy giờ trong trại khoảng
300 tù nhân chỉ có 2 người là TQLC, tôi và anh Nguyễn Văn Ðốc. Nhưng anh
Ðốc làm thợ rèn không bao giờ ra khỏi trại, chỉ một mình tôi TQLC lao
động ngoài trại (Anh Ðốc đã mất vài năm nay tại Houston.)
Mãi
đến ngày gần Tết năm 78, tôi được trại giao công tác lấy lá dong mang
về trại để gói bánh chưng cho bộ đội lẫn tù nhân. Tôi đi ngang qua nhà
anh, thấy anh ra hiệu tôi xuống suối trước cửa nhà anh, rồi anh đi theo
xuống gặp tôi và lại ngồi gần tôi. Một lúc rất lâu anh không nói năng gì
cả. Tôi thấy anh ngồi trầm tư và suy nghĩ, đôi mắt nhìn tôi chăm chú.
Tôi ngồi im lặng tôn trọng sự suy nghĩ cuả anh. Một lúc sau anh bắt đầu
kể với giọng trầm buồn.
-
“Năm 73 sau ngày ngưng chiến, một buổi sáng nhiều sương mù, tôi đi theo
bờ biển để tìm cua, ốc tại thôn Gia Ðẳng. Vì không kiểm soát được nên
tôi lọt qua phòng tuyến của anh và bị các anh bắt được. Tôi rất lo ngại
là sẽ bị các anh đánh đập, nhưng ngoài sức tưởng tượng của tôi, các anh
đã đưa thuốc cho tôì hút và tử tế đưa tôi về BCH của các anh. Tôi được
một anh lính Thủy đánh bộ mang quân hàm Thượng úy hay Ðại úy gì đó, tôi
không biết chắc chắn lắm, dẫn tôi ra Huế để ăn uống và xem chiếu bóng
bằng xe ôtô con. Thú thật anh, trong lòng tôi vô cùng cảm xúc cách đối
xử tử tế của các anh. Nhưng tôi không thể ở lại với các anh mặc dù tôi
rất muốn, vì các anh cũng biết tôi còn gia đình hiện đang sống bên kia
và sẽ bị trù dập nếu tôi là hàng binh. Sau một ngày đi chơi rất thoải
mái tôi được các anh trả về đơn vị tôi. Từ đơn vị của các anh tôi chạy
về đơn vị tôi. Thú thật tôi không ngờ các anh không bắn theo tôi mà thực
sự có ý định thả tôi. Tôi về phải làm tờ kiểm điểm và phải nói lên sự
đối xử tàn ác của các anh. Thú thật anh lương tâm tôi rất xẩu hổ nhưng
không viết như vậy không được.
Rồi
đến ngày “Giải phóng miền Nam“, tôi bị phục viên và được chỉ định đem
gia đình về đây sinh sống. Tôi nghĩ chế độ nào dù bạo tàn hay nhân đạo
theo thời gian cũng phải thay đổi, con người dù sống một thế kỷ rồi cũng
mai một đi. Chỉ có tình người là trường tồn vĩnh cửu, mặc dầu chế độ và
xã hội hiện tại rất hiếm hoi. “Hùm chết để da, người ta chết để tiếng“.
Ngày hôm nay tôi đối xử tử tế với các anh là vì tôi nhớ mãi sự tử tế
của các anh đối xử với tôi, mà trong tư tưởng tôi luôn luôn bị nhồi nhét
các anh là thành phần ăn gan uống máu đồng loại. Tôi nghe bộ đội nói
tên anh và cho tôi biết anh là “Lính Thủy đánh bộ“ trốn trại vừa bị bắt
lại còn đang kỷ luật.
Ngày
hôm nay tôi kể cho anh nghe câu chuyện này mà tôi đã giấu kín từ lâu.
Tôi biết anh là lính thủy đánh bộ nên thổ lộ cảm nghĩ của tôi vì tôi tin
anh cùng đơn vị đã bắt tôi cũng đã biết hoặc đã nghe chuyện này. Tôi
muốn nói với anh lời cuối, anh nên giữ gìn sức khoẻ, đừng có trốn trại
mà sẽ không bao giờ thoát được mà chỉ thiệt thân, hãy chờ đợi ngày về
với gia đình. Tôi không biết thời gian nào nhưng tôi nghĩ rằng sẽ lâu
lắm. Ðiều tiên quyết là anh phải còn sống mới về sum họp với gia đình,
anh nên nhớ điều hết sức quan trọng này.”
Sau
khi nói xong anh đưa tôi gói xôi và trở lại nhà, và nói “Anh ăn đi tôi
không có gì hơn để giúp anh.” Trong khi vừa ăn xôi vừa nghĩ lại những
lời tâm sự của anh.
Ðúng
là năm 73 sau khi có lệnh ngưng chiến tại chỗ đơn vị của Thiếu Tá Trần
Quang Duật, Tiểu Ðoàn Phó TÐ1/TQLC có bắt được 1 tù binh đi lạc vào
tuyến phòng thủ của TÐ1 ở thôn Gia Ðẳng. Sau khi giải giao về BCH/LÐ/258
đang đóng ở Hội yên. Lữ đoàn Trưởng Ðại Tá Ngô Văn Ðịnh đã xin lệnh cấp
trên để đưa anh ra thị xã Huế ăn uống vui chơi mong tìm hiểu thêm tin
tức và mong anh ta hồi chánh. Tôi được cấp xe, tiền để đưa anh ra Huế ăn
uống và xem chiếu bóng. Tôi không hỏi tên anh vì tôi nghĩ anh sẽ nói
tên giả. Ðầu tiên ăn phở anh ăn ngon lành như chưa từng được ăn ngon như
thế, được uống cà phê, hút thuốc lá và đi xem chiếu bóng. Trước khi về
tôi đưa anh ra quán chè ở cồn Hến để anh giải lao và nhìn đồng bào ta
nhộn nhịp qua lại. Anh đăm chiêu và tận hưởng những gì được ưu đãi, chắc
anh nghĩ trong đời anh khó có dịp được hưởng lần nữa. Một lúc anh nói
với tôi: “Các anh tử tế lắm, ăn uống rất ngon và thành phố tấp nập. Tôi
thích lắm, nhưng tôi không ở lại với các anh được vì tôi còn gia đình
đang sống bên kia”. Trên đường trở về tôi được lệnh trả anh về cho TÐ1/TQLC để đơn vị này thả anh tại nơi bắt anh để anh trở về đơn vị.
Biết
rõ và nhớ rất rõ từng chi tiết theo lời tâm sự của anh. Nhưng suốt thời
gian nghe anh tâm sự, ngồi lặng yên tôi lắng nghe. Không xác nhận cũng
như không nói lời nào cả. Ở tù với CS một thời gian tôi thấm thiá sự
gian trá lừa lọc và tàn ác của họ. Năm 1979 khoảng tháng 7 trời rất là
nóng bức từng cơn gió Lào làm cháy da thịt. Tôi xuống suối để rửa mặt
cho đỡ nóng bức. Anh xuống theo và gặp tôi. Anh Trung đưa cho tôi 2 củ
khoai lang đã chín, vài viên kẹo, một nắm thuốc lào và nói: “Tôi chỉ có
thể giúp anh bấy nhiêu, anh cũng biết là mọi người rất nghèo, không dư
dả như miền Nam của các anh. Tôi nghe 5 người trốn trại sẽ được di
chuyển đến trại khác vào ngày mai. Tôi chúc anh may mắn, và tôi nghĩ
chúng ta khó có ngày gặp lại. Mong anh giữ gìn sức khoẻ”.
Tôi
suy nghĩ sự chuyển trại là một tin không bao giờ cho tù nhân biết, nếu
tiết lộ sẽ có biện pháp kỷ luật ngay. Chắc là anh tin tôi mới cho tôi
biết. Tôi bèn nói nhanh với anh vì ngập ngừng thì tôi sẽ không bao giờ
dám nói: “Người Lính Thủy Ðánh Bộ mà anh kể chính là tôi”. Nói xong tôi
chào anh và quay lưng lên đường nhập chung với đội. Ðúng
ngày mai, 5 người chúng tôi chuyển về liên trại nhập chung với những
người trốn trại ở các trại khác di chuyển về trại Phú Sơn 4 Bắc Thái để
công an quản lý. Tôi nhớ mãi hành động cũng như cách cư xử thân thiết và
tử tế của anh. Tôi nguyện trong lòng một ngày nào đó, nếu còn sống sót
để trở về với gia đình tôi sẽ tìm gia đình anh để thăm.
Mãi
đến cuối năm 87 tôi mới được thả ra khỏi trại cải tạo về với gia đình.
Về đến nhà bao nhiêu chuyện phải lo: lo ăn, lo mặc, lo chỗ ở, lo kiếm
tiền để sinh sống cho chính mình và gia đình mình. Sau đó phải lo giấy
tờ hồ sơ để xuất cảnh. Bao nhiêu chuyện phải gánh vác không còn thì giờ
nghĩ đến gia đình anh Trung cho đến khi gia đình tương đối ổn định sau
khi được định cư ở Hoa Kỳ.
Năm
1994, nhân một chuyến làm ăn ở Kuala Lumpur (Malaysia) với 1 người Hoa
quốc tịch Mã Lai. Trong khi chờ đợi hợp đồng với 1 xưởng mộc, anh ta hỏi
tôi có muốn về thăm viếng VN hay không. Tôi không có ý định về VN vì
chế độ CS còn tồn tại, cha mẹ tôi đã qua đời, hơn nữa tôi mới rời đất
nước một thời gian ngắn khoảng 4 năm, không có lý do để về VN. Bỗng tôi
nghĩ đến anh Trung tôi đổi ý muốn về VN một chuyến. Sau vài ngày ở
Saigon, tôi tìm cách đi ra miền Bắc đến tỉnh Hoàng Liên Sơn tìm gia đình
anh Trung. Ðáng tiếc cảnh vật cũng như người đã thay đổi, không có cách
gì tìm lại được gia đình anh. Tôi trở lại Saigon trong lòng vô cùng hối
tiếc và ân hận. Nhưng tôi nghĩ mọi việc đều được thượng đế an bài, tôi
cố công đi tìm nhưng không gặp được cũng là do ý trời. Lý luận như thế
để lường gạt lương tâm được yên ổn không còn bứt rứt nữa.
Vài
ngày sau đó không có chuyện gì để làm, hơn nữa Saigon nóng bức và chật
chội, tôi có ý định về miền Tây chơi. Tôi ra bến xe Tân cảng Phú lâm mua
vé xe về Cần thơ.
Trong
khi chờ đợi xe khởi hành, tôi ngồi quán uống nước nhìn người qua lại
tấp nập và vội vã hình như thời gian không đủ đối với họ. Bỗng nghe 2
anh khuân vác giành mối gây nhau bằng giọng Bắc mà theo kinh nghiệm
xương máu của tôi đúng là giọng Bắc Kỳ năm 75.
Hai
anh cãi nhau nhiều, nhưng chỉ một câu làm tôi chú ý và ngạc nhiên.
“Mày, con Trung Khều, bố con mày là thành phần phản động phải sống ở
vùng núi, không được sống vùng đồng bằng như gia đình tao, tao không xem
mày ra gì c...” Câu nói này làm trong đầu óc tôi hiện lên hình ảnh quen
thuộc xa xưa, nhưng không biết chắc đúng hay không.
Ðợi
2 anh cãi xong lại gần anh bị anh kia mắng, tôi hỏi: “Anh quê ở đâu mà
vào Nam làm nghề khuân vác”. Anh nhìn tôi ngỡ ngàng và đôi chút ngạc
nhiên. Tôi bèn mời anh lại chỗ tôi ngồi và gọi nước cho anh.
Một
lúc sau anh ta tâm sự, “Gia đình tôi trước ở Mường Côi tỉnh Hoàng Liên
Sơn. Sau đó cả gia đình di chuyển về Phủ Lý tỉnh Nam Ðịnh để sinh sống.
Nhưng cuộc sống quá khổ thiếu thốn đủ thứ, gia đình quá nghèo nên tôi
định vào Saigon để kiếm tiền giúp gia đình.”
Tôi bèn hỏi “Hồi nẫy tôi nghe anh kia nói bố anh là Trung Khều phải không?”
Anh nhìn tôi và nói: “Bố tôi là bộ đội phục viên, tay bị thương nên mang tật”.
Tôi bèn nói bố anh làm nghề thợ may phải không?
Anh ngạc nhiên hỏi vì sao tôi biết. Anh nhìn tôi chăm chú và nói “Bác là Việt kiều ở nước ngoài về phải không?”
Tôi
hỏi tại sao anh lại đoán chắc như thế. Anh bèn chỉ đôi giầy tôi đang
mang và nói “Ða số người ta chỉ mang dép mà bác lại mang giầy Adidas”.
Tôi mỉm cười nói với anh ta “Tôi cũng ở Mường Côi Hoàng Liên Sơn 3 năm”.
Anh cười nói “Bác nói giọng Nam rặt sao lại ở Hoàng Liên Sơn?”.
Tôi
bèn nói tôi ở tù cải tạo ở đó. Anh ta mừng rỡ nói, “Bác ở trại tù 9 căn
bị cháy hết đó phải không?” Tôi nói phải, anh nhớ dai lắm.
Anh
ta nói thêm: “Các bác các chú ở trong trại đó lao động ngang qua nhà
cháu, hay nghỉ hai bên đường trước cửa nhà để uống nước và hút thuốc
lào”.
Tôi
liền nghĩ: “Khổ công lặn lội đi tìm không được, tình cờ lại gặp cố
nhân”. Tôi bèn hỏi thăm bố mẹ anh ta. Anh ta kể: “Bố cháu bây giờ yếu
lắm, di chuyển đi lại khó khăn, không làm gì cả. Chỉ có mẹ cháu buôn bán
ngoài chợ Phủ Lý nhưng không đủ ăn. Không có vốn làm sao kiếm tiền
được. Gia đình cháu rất vất vả và nghèo khổ.”
Tôi
lấy 200 đồng (Dollars) để giúp anh và gia đình anh và gửi lời hỏi thăm
bố mẹ anh… Tôi nói tên tôi cho anh biết và nghĩ rằng bố anh có lẽ còn
nhớ. Tôi viết địa chỉ cho anh để sau này anh có thể liên lạc được với
tôi.
Sau
7 ngày lang thang ở VN, tôi trở lại Malaysia để tiếp tục công việc làm
ăn... Trong lòng tôi thực sự thơ thới, hân hoan cũng như tràn đầy hạnh
phúc, như vừa trút bỏ gánh nặng ngàn cân trên vai và đã thực hiện được
điều tâm nguyện của mình. Mọi việc lặng lờ trôi vào quá khứ và tôi quên
bẵng đi một thời gian.
Năm
1995 khoảng tháng 5, tôi nhận được một lá thư. Lời lẽ trong thư là lời
lẽ của một anh bộ đội miền Bắc đã phục viên. Tôi muốn gìn giữ từ ngữ của
anh dùng để người đọc có ý niệm rõ chứ tôi không có ý dùng từ ngữ VC…..
“Tôi
được con tôi kể lại, anh tặng cho nó và gia đình tôi một số tiền quá
lớn đối với trí tưởng tượng của tôi. Tôi nghĩ trong chế độ xã hội hiện
nay rất thiếu tình người, không ai cho tôi một số tiền lớn lao như thế
và đối xử tử tế như anh vậy. Nhờ đó vợ tôi có số vốn buôn bán, cuộc sống
đỡ hơn trước nhiều lắm. Thật sự bây giờ tôi không thể nào hình dung
được hình ảnh của anh, hình như thời gian đã làm cho tôi quên mất. Nhưng
việc làm của anh đã giúp cho tôi “một ấn tượng bức xúc” không bao giờ
tôi quên được. Tôi rất mừng cho anh và gia đình anh đã thoát khỏi sự
cùng cực đau khổ. Là nạn nhân của một chế độ bất nhân, tàn bạo và hận
thù nhưng mọi người trên thế giới mở rộng vòng tay giúp đỡ. Chế độ đó,
tôi đã phục vụ cả cuộc đời tôi và hy sinh xương máu để bảo vệ.
Cuối cùng tôi xin nói với anh rằng. Thuyết
nhân quả của nhà Phật đã đánh tan bức tường vô thần trong đầu óc tôi.
Bây giờ sự suy nghĩ của tôi vào giờ phút còn lại của cuộc đời hoàn toàn
thay đổi hẳn. Tôi tin tưởng hoàn toàn vào câu nói của nhà Phật “Gieo
nhân nào hưởng quả nấy”
Tôi thành thật cảm ơn anh. Sự tử tế của anh đã làm biến đổi con người tôi thành người tốt như hiện nay, theo ý tôi nghĩ…....